Khác Đọc

Quê hương

Bruno Schulz

Sau nhiều biến cố và biến động cuộc đời, mà tôi không định sẽ kể ở đây, cuối cùng tôi cũng ra khỏi biên giới, ở vùng đất trong những ước mơ thời trẻ của mình mà tôi đã nhớ thương cháy bỏng. Những ước mơ dài trở thành hiện thực quá muộn và ở trong những tình huống tất nhiên là khác với những gì tôi đã tự huyễn tưởng ra. Tôi bước vào đó không là người thắng cuộc, mà như một kẻ bạc mệnh trong đời. Vùng đất tôi tưởng tượng ra như những cảnh huy hoàng, giờ đã trở thành vùng đất của những thất bại nghèo nàn, vô danh, nhỏ bé, mà trong chúng, tôi đã lần lượt đánh mất từng cảm hứng cao cả và kiêu hãnh một. Tôi đã chiến đấu chỉ để có một đời sống trần trụi, và kiệt quệ về tinh thần, trong khả năng có thể, tôi cứu lấy một cái vỏ mỏng khỏi vỡ, bị những biến chuyển của số phận dun đẩy đi nơi này nơi khác, cuối cùng tôi cũng tình cờ gặp cái tỉnh lẻ có diện tích trung bình này, nơi mà thời trẻ tôi đã ước đặt một căn nhà mùa hè nhỏ, refugium[1] của một bậc thầy già và có tiếng trước cái nhốn nháo của thế giới. Thậm chí không nhận ra cái mỉa mai của số phận trong sự trôi đi của những trạng huống, tôi định bây giờ sẽ dừng chân lại đâu đó một thời gian, ngồi xuống đâu đó, trú đông, có thể, cho đến tận khi luồng khí báo những sự việc mới thổi về. Đối với tôi, số phận mang tôi đi đâu cũng được. Vẻ diệu kỳ của vùng đất này, với tôi, đã tắt vĩnh viễn, tôi nhàu nhĩ và tiều tụy, chỉ còn khao khát sự bình yên mà thôi.

Nhưng hóa ra chuyện lại diễn ra khác. Rõ ràng là tôi đã đi tới một điểm ngoặt nào đó trên con đường của mình, tới một ngã rẽ riêng của số phận, cuộc sống của tôi không ngờ lại bắt đầu ổn định. Tôi cảm thấy như mình vừa dự vào một dòng chảy như ý. Ở mọi nơi mà tôi hướng đến, tôi đều gặp một tình huống như được chuẩn bị sẵn cho mình, mọi người ngay lập tức rời công việc của mình, như thể họ đã chờ tôi, tôi nhìn thấy trong mắt họ vô thức ánh lên sự chú ý, cái quyết định tức thời này, sự sẵn sàng phụng sự cho tôi, như thể theo mệnh lệnh của một cấp quyền lực cao hơn. Điều đó tự nhiên là một ảo tượng, do thực tế sắp đặt đúng mà thành, do các mảnh số phận của tôi khéo léo chắp nối với nhau dưới bàn tay linh hoạt của tình huống mà nên, cái tình huống đã dẫn dắt tôi đi trong cơn mộng du từ sự việc này tới sự việc khác. Gần như không có thời gian để bất ngờ, cùng với chuỗi những sự việc như ý này cùng lúc xảy đến một số mệnh nào đó đã được thỏa thuận, một sự bị động và đáng tin dễ chịu nào đó, đã sai tôi không kháng cự mà xuôi theo hấp lực của những trạng huống. Tôi cảm thấy điều ấy có chút gì như là sự bù đắp cho một nhu cầu lâu ngày không thỏa, như là sự thỏa mãn sâu sắc của cơn đói kinh niên đã dứt và của một nghệ sĩ không được công nhận, rằng cuối cùng thì, ở đây, họ cũng nhận ra tài năng của tôi. Từ một kẻ nghiệp dư chơi trong quán cà phê, đi tìm một công việc bất kỳ, tôi nhanh chóng thăng tiến lên vị trí người chơi vĩ cầm chính của nhà hát thành phố; mở ra trước tôi những hội nhóm kín yêu nghệ thuật, tôi tham gia vào một hội tốt nhất như thể dựa trên cái quyền tôi đã có từ lâu, tôi, người bấy giờ đôi khi có phần sống trong thế giới hiện sinh ngầm của những hành khách thấp kém, đi mà không có vé, dưới tầng hầm của con tàu xã hội. Những khát vọng nhanh chóng tự hợp pháp mình, tự thực thi mình, như những đòi hỏi bị gạt bỏ và có tính phản kháng, chúng đưa vào sâu tâm hồn tôi một sự sống ngầm ẩn và giày vò. Hằn dấu của sự đòi hỏi thái quá và tự cao vô ích hiện rõ trên trán tôi.

Tôi chỉ kể vắn tắt mọi thứ vậy, gần như dưới khía cạnh trục đường chính của số phận mình, mà không đi vào chi tiết của cái sự nghiệp kỳ lạ này, bởi vì mọi sự kiện đúng ra đều thuộc về lịch sử liền trước những việc được kể ở đây. Không, hạnh phúc của tôi hoàn toàn không đến từ sự dư thừa hay quá tự do như có thể phỏng đoán. Chỉ có cảm giác bình yên tột cùng và về sự chắc chắn choán lấy tôi, cái ký hiệu mà qua nó - cả đời nhạy cảm với tất cả chuyển động trên khuôn mặt của nó, một người đã kinh qua, trông mặt mà nắm bắt được nội dung của số phận - tôi vô cùng nhẹ nhõm biết được, rằng lần này nó không giấu giếm tôi bất kỳ một ý đồ mánh khóe nào nữa. Chất lượng hạnh phúc của tôi thuộc kiểu bền vững và khả tín.

Cả quá khứ lang thang không nhà của tôi, sự nghèo nàn ngầm ẩn của cuộc sống ngày trước đã dứt ra khỏi tôi và bay ngược lại, như một mảng lớn của xứ sở nghiêng đưa trong ánh sáng tịch dương, một lần nữa nổi lên trên những chân trời muộn, đồng thời một hấp lực đang nâng tôi lên, bắt lấy đường cong cuối cùng, đưa tôi dốc đứng vào đêm, nó có lồng ngực đầy đặn của tương lai đang va trực diện vào nó, tương lai mạnh mẽ, ngất ngây, say sưa khói tỏa. Đây là nơi tôi có thể hồi tưởng về một sự thật quan trọng nhất, một sự thật đã khép lại và vinh danh cái thời mãn nguyện và hạnh phúc, về Eliza, cô gái tôi gặp vào thời điểm ấy trên con đường của mình, và là người không lâu sau khi đính ước tôi đã lấy làm vợ.

Hạnh phúc của tôi kết lại trọn vẹn và đủ đầy. Vị trí của tôi trong nhà hát giữ vững vàng. Nhạc trưởng dàn nhạc, ông Pellegrini, coi trọng tôi và hỏi nghe ý kiến của tôi trong tất cả các công chuyện có tính quyết định. Đó là một người đàn ông đã luống tuổi, đang đứng trên ngưỡng tới tuổi hưu trí, và có một chuyện được ông ấy, người đứng đầu nhà hát, ngấm ngầm bàn bạc với hội âm nhạc thành phố, rằng cây đũa của nhạc trưởng sẽ về tay tôi mà không cần bất kỳ nghi thức rườm rà nào. Hơn một lần tôi đã có nó trong tay, khi chỉ huy buổi hòa nhạc hằng tháng của nhà hát bị ốm, hay trong đêm nhạc kịch, hay khi người nhạc trưởng già ấy cảm thấy không đủ sức đáp ứng được một bản nhạc xa lạ với ông về mặt tinh thần, mới mẻ và đang mốt.

Nhạc kịch được xếp vào danh mục những lĩnh vực được đầu tư tốt nhất trong nước. Tiền lương của tôi hoàn toàn đủ cho một cuộc sống tốt, được mạ vàng một lớp dư thừa nhất định nào đó. Những căn phòng chúng tôi ở được Eliza bày trí theo ý thích của mình, bởi vì tôi thì chẳng có bất cứ mong muốn nào và hoàn toàn thiếu sáng kiến trong chuyện này. Thay vào đó, Eliza có những mong muốn rất quyết đoán, dẫu vẫn hay thay đổi, mà cô thực hiện với năng lượng xứng đáng dành cho một việc tối quan trọng. Cô ấy vẫn đang thương thỏa với các nhà cung cấp, kiên trì cố gắng để có được chất lượng hàng hóa, giá cả và cũng đạt được những thành công ở mảng này, điều khiến cô không ít tự hào. Tôi nhìn cô ấy lo xa với sự nhạy cảm rộng lượng và đồng thời với một nỗi sợ cụ thể như nhìn vào đứa trẻ đang vô tư chơi bên bờ của vực thẳm. Thật là ngây thơ khi cho rằng, khi đang chiến đấu để có hàng ngàn những mảnh nhỏ của đời sống mình, chúng tôi đang định hình số mệnh của mình!

Tôi, người đã may mắn thu mình vào trong cái vịnh yên bình này - chỉ muốn số mệnh thôi nhạy bén, không khiến nó chú ý, lặng lẽ dụi mình vào hạnh phúc và trở nên mờ nhạt.

Thành phố nơi số mệnh đã cho tôi tìm thấy một trạm nghỉ yên bình và dễ chịu nổi tiếng với một nhà thờ lớn cổ, uy nghi, nằm trên một nền đất cao và hơi bên rìa những khu dân cư. Tới đây địa phận của thành phố đột ngột kết thúc, nó dốc đứng theo những thành trì và cột trụ bị dâu tằm dại và cây óc chó phủ kín thành rừng, mở tầm nhìn ra một vùng đất rộng. Đây là cao nguyên cuối cùng và đang dần biến mất của vùng núi đá vôi, trông coi cả đồng bằng rộng lớn và sáng rõ, đón lấy những luồng gió ấm từ phía Tây trên cả bề rộng của mình. Đứng giữa dòng đối lưu hiền hòa này, thành phố khép mình vào trong vùng khí hậu êm dịu và tĩnh lặng, như thể tạo ra một vòng tuần hoàn khí tượng riêng và nhỏ trong phạm vi của cái lớn hơn, bao quát. Trong năm những luồng khí hiền hòa và thoang thoảng thổi về đây, đến cuối thu, chúng từ từ chuyển hóa thành một dòng liên tục và xiết theo kiểu dòng hải lưu Gulf Stream, thành luồng gió thổi thường xuyên và đều đều, nhẹ nhàng, mãi cho tới khi trí nhớ lu mờ rồi nó êm ái biến mất.

Nhà thờ lớn được xây dựng công phu vào những thế kỷ ở trong cái ảm đạm đắt đỏ của những bức tranh kính hoa đang nhân lên vô cùng, được nhiều thế hệ chắt chiu từ những giá trị được gắn vào những viên đá quý, đang thu hút về đây lũ lượt du khách từ thập phương. Vào mỗi độ trong năm đều có thể trông thấy họ đi với những tờ hướng dẫn tham quan trên tay, đang chạy ngang dọc các phố của chúng tôi. Họ ở gần hết các khách sạn của chúng tôi, lục lọi trong các cửa hàng và các hiệu đồ cũ của chúng tôi để tìm những món đồ độc đáo và đứng kín trong các không gian giải trí. Từ một thế giới xa xôi, họ mang về đây mùi của biển, đôi khi là sự dễ dàng trong những dự án to lớn, sự mau lẹ trong các công chuyện. Cũng có khi do thích thú khí hậu, nhà thờ lớn, nhịp sống, họ cư trú ở đây lâu hơn, làm quen và ở lại vĩnh viễn. Những người khác, khi rời đi, mang theo vợ, những đứa con gái xinh của các thương nhân, chủ nhà máy và chủ nhà hàng của chúng tôi. Nhờ những mối ràng buộc này mà vốn nước ngoài thường được đầu tư vào các doanh nghiệp và củng cố nền công nghiệp của chúng tôi.

Đời sống kinh tế của thành phố cứ thế tiếp diễn hàng năm không có biến động hay khủng hoảng nào. Nền công nghiệp sản xuất đường phát triển mạnh đang nuôi sống ba phần tư người dân từ động mạch ngọt của mình. Ngoài ra, thành phố còn sở hữu một nhà máy sứ nổi tiếng có truyền thống xa xưa, đẹp đẽ. Nó sản xuất để xuất khẩu, hơn thế, mỗi người Anh, khi trở về vùng đất của mình, cho rằng điều quan trọng nhất là phải đặt một trong các bộ bát đĩa có hàng bao nhiêu chiếc sứ ngà với họa tiết nhà thờ và thành phố, được gia công bởi các nữ sinh trường nghệ thuật của chúng tôi.

Vả chăng đây còn là thành phố sung túc và được khai thác tốt như rất nhiều thành phố khác ở vùng đất này - biết trông xa mà cũng vì lợi ích một cách vừa phải, thích sự thoải mái và đời sống vật chất kiểu thị dân một cách vừa phải, cũng tham vọng và trưởng giả một cách vừa phải. Các quý bà tăng mức xa xỉ kiểu đô thị lớn trong các nhà xí, các quý ông bắt chước nhịp sống của thủ đô, gắng giữ một kiểu cuộc sống lả lướt về đêm với sự giúp đỡ của một vài buổi biểu diễn mua vui và các hộp đêm. Trò đánh bài nở rộ. Kể cả các quý bà cũng ưa thích nó và gần như không có buổi tối nào mà chúng tôi không kết thúc một ngày bên bàn bài trong một căn nhà đẹp nào đấy của đám bạn thân, có khi kéo dài đến tận nửa đêm. Ở điểm này Eliza lại thủ xướng việc giao du ấy, khiến đam mê của mình trở nên chính đáng trước tôi bằng cái lẽ lo lắng cho cái tiếng giao thiệp của chúng tôi, cái việc cần phải thường xuyên ở bên ngoài thế giới, để không trật ra khỏi vòng quay của nó, nhưng thực chất là cô ấy mê muội vẻ đèm đẹp của sự lãng phí thời gian vô lo vô nghĩ và có chút kích thích này.

Hơn một lần tôi quan sát thấy cô ấy bị trò chơi kích thích đến mức hai má đỏ ửng và cặp mắt sáng lên, cô đem cả tâm hồn tham gia vào những tình huống rắc rối biến hóa của trò hên xui này. Cái đèn bàn tỏa dưới chụp đèn thứ ánh sáng hiền hòa lên bàn, xung quanh nó là nhóm người đang ngồi chăm chú phía trên những thẻ bài giữa trong tay, diễn ra một cuộc đua trong tưởng tượng chạy theo dấu vết ảo giác của may mắn. Tôi trông cô ấy gần như là một nhân vật hư ảo được tạo ra bởi sự căng thẳng của buổi chiếu phim và hiện ra mờ mờ sau lưng của người này hay người kia. Im lặng, các từ vang lên không quá to, biểu đạt những lối đi luôn biến đổi và lắt léo của may mắn. Về phần mình, tôi đang chờ khoảnh khắc khi cơn mê sảng im lặng và khát ngấu thâu tóm lấy tất cả các giác quan, sau khi đã loại bỏ trí nhớ, chúng bất động, tê liệt rũ xuống một cái bànnhư đang xoay vòng, để lặng lẽ thoái lui khỏi tình trạng có ma lực này và biến mất vào sự cô đơn của những suy nghĩ. Thỉnh thoảng sau khi đã dừng chơi, tôi có thể rời bàn mà không khiến bất kỳ ai chú ý và khẽ đi sang căn phòng thứ hai. Trong ấy tối, chỉ có ngọn đèn đường từ xa hắt ánh sáng vào. Dựa đầu vào mặt kính cửa sổ, tôi đứng như vậy một hồi lâu và ngẫm nghĩ…

Trên bụi cây rậm rạp đang ngả thu vàng của công viên, đêm mờ sáng ánh tịch dương. Trong khoảng trống của bụi cây, những con quạ hoảng sợ thức dậy trong tiếng quác quác vô thức, lầm lẫn vì những dấu hiệu ngỡ như là của bình minh, chúng tới tấp và ồn ào bay đi, cái nhốn nháo rền rĩ và ong ong này, bằng tiếng ồn vào và những đường dập dờn đang lấp đầy bóng tối vàng vọt đầy vị đắng của trà và lá rơi. Cái hỗn độn phần phật khắp cả bầu trời của những cú lượn vòng và những đường bay ấy dần đáp xuống và bình ổn, từ từ sà xuống và chiếm lấy chỗ bụi cây thưa xáo động như đám đông lướt qua đầy hỗn độn, với những cuộc chuyện trò đang ắng dần, những câu hỏi rền rĩ, chúng dần bình ổn, đậu xuống hết sức thoải mái và từ từ kết bầy lại trong im lặng của sự ủ rũ đang khẽ sột soạt. Và đêm muộn thăm thẳm lại cư ngụ. Giờ giờ trôi. Áp cái trán nóng vào mặt kính, tôi cảm thấy và biết: rằng không điều gì tồi tệ có thể xảy đến với mình nữa, tôi đã tìm thấy trạm nghỉ và bình yên. Từ giờ, một chuỗi dài những năm hạnh phúc và no đủ sẽ tới, một trục thời gian tốt đẹp và dễ chịu không có điểm dừng. Trong những hồi thở phào nông và êm ái, ngực tôi lấp hạnh phúc đầy tràn ra các cạnh. Tôi đang ngừng thở. Tôi biết: như cả sự sống - một ngày nào đó cái chết sẽ đón tôi vào vòng tay rộng mở, đủ đầy và thỏa lòng. Tôi sẽ nằm thỏa mãn đến tận cùng giữa màu xanh trong nghĩa trang đẹp đẽ và được săn sóc ở chốn này. Vợ tôi - sẽ thật đẹp trong tấm vải trắng của một góa phụ để tang - sẽ mang tới cho tôi những bông hoa đẹp vào một ban trưa sáng sủa và yên tĩnh. Từ đáy của sự trọn vẹn vô cùng này, một điệu nhạc như là nặng nề và sâu sắc cất lên, như những tiết nhịp tiếc thương, trang nghiêm, văng vẳng của một khúc dạo đầu trang trọng. Tôi cảm thấy những va đập mạnh của nhịp điệu đang dội lên từ bên trong. Nhướng mày, chăm chú nhìn vào một điểm xa xôi, tôi cảm thấy, như tóc đang dần mọc trên đầu mình. Tôi đơ người ra và lắng nghe…

Tiếng chuyện trò ồn ào đã đánh thức tôi dậy khỏi trạng thái tê liệt ấy. Họ gặng hỏi tôi và cười. Tôi nghe thấy tiếng vợ mình. Tôi từ vùng tị nạn của mình trở về căn phòng sáng đèn, chớp đôi mắt ngập đầy bóng tối. Nhóm bạn đang rã đám rồi. Chủ nhà đứng bên cửa và nói chuyện với những người đang rời đi, trao đi những phép tạm biệt lịch sự. Cuối cùng cũng chỉ còn mỗi chúng tôi đứng trên phố đêm. Vợ tôi ung dung thoải mái theo sau nhịp chân tôi bước. Chúng tôi đều bước và đi lên dốc phố, cô ấy hơi cúi đầu rẽ bước trên tấm thảm sột soạt lá úa tàn nằm kín lối đi. Cô ấy có lại sức sống nhờ trò chơi, may mắn thỏa lòng mong đợi, rượu vang uống cạn, và có nhiều kế hoạch nhỏ bé của phụ nữ. Dựa trên thỏa thuận ngầm, cô ấy đòi hỏi từ tôi sự cởi mở tuyệt đối đối với những mộng tưởng bất chấp ấy và nghĩ xấu cho tôi vì tất cả những lưu ý tỉnh táo và có ý phê bình. Một vệt lơ lửng xanh của bình minh đang lên phía trên chân trời tối, cũng là lúc chúng tôi bước vào căn hộ. Một mùi dễ chịu của không gian được sưởi ấm và săn sóc tỏa ra quanh mình. Chúng tôi không bật đèn. Ngọn đèn đường xa vẽ một đường bàng bạc qua tấm rèm lên trên bức tường đối diện. Ngồi trên giường, trong im lặng, tôi nắm lấy tay Eliza và giữ trong tay mình một lát.

Trương Thu Hà dịch từ tiếng Ba Lan

“Quê hương” và “Sao chổi” là hai truyện ngắn cuối đời của Schulz cùng được đăng báo vào năm 1938. “Sao chổi” được đăng trước trên tờ Wiadomości Literackie, còn “Quê hương” xuất hiện sau đó trên tờ Sygnały. Tuy cùng xuất hiện trong khoảng thời gian gần nhau, nhưng hai truyện không có nhiều liên quan. “Quê hương” gợi nhớ đến “Cộng hoà những ước mơ” như những miêu tả những thế giới hạnh phúc, những vùng đất hứa phi thực hay những tiểu địa đàng, mà trong đó không khó để nhận ra chức năng bù đắp của chúng cho những nỗi buồn lo và bạc nhược của tác giả. Trong khi đó, “Sao chổi” là sự trở về với những thí nghiệm của người Bố, tiếp nối tập Những hiệu quế. Khác biệt xa về nội dung của hai truyện ngắn đã khiến Jacek Scholz đưa ra một giả thuyết, rằng Schulz không viết “Quê hương” trong thời gian ấy, mà đó là bản dịch của truyện ngắn ông viết bằng tiếng Đức - “Die Heimkehr” từ năm 1937 và cố gắng gửi cho Thomas Mann. Nhưng mọi nỗ lực tìm kiếm bảo thảo “Die Heimkehr” đều không thành, nên không có chứng cớ nào trực tiếp chứng minh điều ấy, ngoài một vài dấu vết mà Jacek Scholz lần tìm trong thư từ của Schulz. Władysław Panas cho rằng, rất có thể “Quê hương” ám chỉ đến thời gian Schulz sống ở Vienna vào năm 1917.

Nếu không xét những yếu tố sự thật tiểu sử, mà thử cắt nghĩa cụm từ quê hương trong phạm vi của tác phẩm, thì “Quê hương” ấy không phải là một Drohobycz trong hiện thực, mà là phiên bản tưởng tượng của nó. Ấy là vùng đất lý tưởng, như trong “Cộng hoà những ước mơ”, nơi kẻ lang thang, nhàu nhĩ ấy tìm thấy một trạm nghỉ an toàn. Ấy là vùng đất phi thực “ở bên kia địa cầu”, nơi mà Schulz chỉ có thể dùng tưởng tượng để bứt mình ra khỏi hiện thực và đi tới. Lần này, ông đã dừng lại lâu hơn, ổn định một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc.

Ấy là mơ, còn cuộc đời thực của ông lại kết thúc vô cùng bi thảm. Chỉ một năm sau, tháng Chín năm 1939, Hồng quân Liên Xô tiến vào Đông Galicia, Schulz vẫn duy trì việc đi dạy với đồng lương ít ỏi, không thể xuất bản được gì, vì truyện ông viết quá xa rời các khuôn mẫu hiện thực xã hội của nghĩa mà chính quyền bấy giờ đặt ra. Mùa hè 1941, tình hình tệ hơn khi Đức Quốc xã tiến vào Drohobycz, Schulz bị kiềm tỏa trong getto. Nhờ làm thuê cho Felix Landau mà ông được viên cảnh sát Gestapo này bảo vệ. Bạn bè chí cốt của Schulz ở Vác-sa-va lúc ấy đã cố gắng làm giả giấy tờ để cứu ông trốn khỏi Drohobycz. Nhưng ngay trước ngày chuẩn bị ra đi, ông bị Karl Gunther - kẻ đối đầu với Landau - bắn chết ngay trên phố, trong chiến dịch thảm sát người Do Thái vào ngày 19 tháng Mười một năm 1942.

Trong bản đăng báo, Schulz chú giải rằng, “Quê hương” là “một mảnh của một chỉnh thể lớn hơn”. Nó mở ra nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu, rằng nên hiểu “một chỉnh thể lớn hơn” này chính là tác phẩm Mesjaszđã thất lạc không dấu vết mà Schulz đã nói rằng nó là quan trọng nhất đối với ông; hay ấy là một mảnh của cả một vùng đất hứa rộng lớn mà kẻ lang thang ấy luôn tìm đến để nương đậu và an trú?

Tài liệu tham khảo:

J. Jarzębski, Biografia, trong: Bruno Schulz, Opowiadania. Wybór esejów i listów, oprac. R. Jarzębski, Wrocław 2019

J. Jarzębski, Miasto Schulza, “Teksty Drugie” 2001, số 2, tr. 40–51

J. Scholz, Zagadka tekstu Brunona Schulza “Ojczyzna”, Lublin 2003


[1] Nơi trú ẩn.

Tags: Bruno Schulz Trương Thu Hà